Các bệnh cá Koi và biện pháp phòng trị

Ai đam mê chơi cá Koi rất mong muốn cho đàn cá của mình luôn mạnh khỏe nhưng cá chép koi cũng thường hay mắc các bệnh thông thường nhất có thể tác hại đến cá chép Nhật trong bể nuôi có thể do ký sinh vật xâm nhập vào bể đồng thời với thức ăn sống hay cây trồng lấy từ nước bẩn ở nơi khác, hoặc là nhiễm khuẩn do mốc hoặc môi trường sống chung quanh thiếu vệ sinh và cũng do sự thiếu săn sóc của con người. Koi bác Hường sẽ chia sẽ những bệnh mà những đàn cá koi Nhật của chúng ta thường hay mắc phải.

 

  1. Bệnh đốm đỏ:

– Dấu hiệu bệnh lý: Cá koi trong ao nuôi hoặc lồng nuôi khi mắc bệnh đốm đỏ thường giảm ăn hoặc bỏ ăn, cá bơi lờ đờ trên tầng mặt, màu sắc da chuyển sang tối sẫm. Trên thân cá chép koi xuất hiện các chấm xuất huyết đỏ, vẩy rụng thành mảng. Khi bệnh nặng các gốc vây xuất huyết, các tia vây rách nát, cụt dần. Các điểm xuất huyết viêm, tấy, loét, trong có nhiều mủ, máu và xung quanh có nấm ký sinh. Mang cá tái nhợt hoặc xuất huyết, mắt lồi có xuất huyết. Bệnh kéo dài từ 1 đến 2 tuần, cá có thể chết. Khi giải phẫu: Toàn bộ cơ quan nội tạng đều có xuất huyết. Khi nhấc đầu cá koi lên có máu nhạt lờ lờ chảy ra từ hậu môn.

– Tác nhân gây bệnh: Bệnh đốm đỏ do vi khuẩn hình que có tên khoa học là Aeromonass Hydrophylla hoặc Pseudomnas gây ra.

– Phân bố và lan truyền của bệnh: Bệnh đốm đỏ thường gặp ở ca koi nuôi lồng và nuôi ao (cá koi nhật thường mắc bệnh ở giai đoạn cá giống lớn trở lên cá giống nhỏ ít thấy bị mắc bệnh; ngoài ra cá koi kohaku, koi sanke, koi tancho, shiroi…cũng bị mắc bệnh này. Ở Miền Bắc Việt Nam cá thường bị mắc bệnh vào 2 mùa chính là mùa xuân (tháng 3 – 4 dương lịch) và mùa thu (tháng 8 – 9 dương lịch).

– Phòng và trị bệnh:

Phòng bệnh: Sử dụng phương pháp phòng bệnh chung đã nêu phần trên.

Trị bệnh: Khi cá bị mắc bệnh cần tách riêng những con bị bệnh ra ao riêng để điều trị tích cực; thay nước mới cho ao, bón vôi bột hoà nước, té đều khắp ao với liều lượng 2 kg/100m2/2 tuần để nâng độ pH trong môi trường nước (loại vi khuẩn này không thích ứng trong môi trường kiềm).

Bạn có thể áp dụng phương pháp: Đánh muối với tetraxilin nhé . 1 khối nước = 1 vỉ tetraxilin + 1kg muối . 12h thay 2-3 lần nước 1 lần. Thời gian đánh muối trong 3 ngày.

Chia sẻ kinh nghiệm của người nuôi cá cho bệnh này ” Mình thì gây mê xong lấy thuốc sát trùng của người xít lên, lấy thìa cạo sạch đi làm 2,3 lần. Rồi lấy thuốc con nhộng bôi vào để ngấm thuốc khoảng 2 phút rồi bỏ xuống nước sủi oxy mạnh cho tỉnh! Rồi bỏ sang tank nước sạch không có clo + muối 3/1000 dưỡng, ngày thay 50-100% và bù muối. Dưỡng khoảng 3-7 ngày là ổn, từ ngày thứ 4 nếu cá khoẻ cho anh nhẹ lấy sức, yếu thì coi như xong phim!”

2. Bệnh nấm thuỷ mi ( Bệnh trắng da):

– Dấu hiệu bệnh lý: Khi cá chép koi mới bị bệnh trên da cá, da ba ba… xuất hiện những vùng trắng, xám, ở đó có những sợi nấm nhỏ, mềm; sau vài ngày sợi nấm phát triển thành búi trắng như bông, có thể nhìn thấy được bằng mắt thường. Trứng cá bị bệnh có màu trắng đục, xung quanh có nhiều sợi nấm làm cho trứng bị ung.

– Phân bố và lan truyền: Bệnh nấm thuỷ mi không chọn các ký chủ, tất cả các loài thuỷ sản đều có thể bị bệnh. Trong các ao nuôi mật độ dày, nước bẩn đều có thể xuất hiện bệnh nấm. Bệnh nấm phát triển mạnh nhất ở nhiệt độ nước từ 18 – 25 oC. Miền Bắc nước ta bệnh nấm phát triển mạnh vào mùa xuân, cuối thu và mùa đông…

– Phòng và trị: Áp dụng phương pháp phòng chung. Có thể dùng muối ăn tắm cho động vật thuỷ sản ở nồng độ 2 – 3 % trong 15 – 30 phút. Ngoài ra dùng Chlorin hoà nước phun đều xuống ao với lượng 1ppm (1 gam/1m3 nước). Phun trong 2 ngày liên tục.

– Cách điều trị có hiệu quả là ngâm cá trong một chậu nước tắm mặn. Người ta hòa tan muối tự nhiên trong nước ngọt. Nồng độ cho một lần ngâm như vậy với thời gian ngắn (từ 15-30 phút) là 15-30g trong một lít. Muốn điều trị dài ngày, cần dùng 7g/lít. Có một số phép chữa đặc biệt khác.

3. Nấm thân, nấm miệng. 

Nấm miệng cá koi không liên quan đến nấm thân, do một loại vi khuẩn là Chondrococcus gây ra. Bệnh xảy ra tại vùng miệng gây ra những vết sùi. Không dùng thuốc trị nấm được mà phải dùng thuốc kháng sinh, có thể tìm ở các thầy thuốc thú y.

4. Bệnh trùng bánh xe:

– Dấu hiệu bệnh lý: Khi cá chép koi Nhật mới mắc bệnh, trên thân có nhiều nhớt hơi trắng đục, da chuyển sang màu xám, cá ngứa ngáy, khó chịu, thường nổi từng đám trên tầng mặt, một số con tách khỏi đàn bơi lờ đờ quanh ao. Cá bị bệnh nặng bơi không định hướng, lật bụng, chìm xuống đáy ao và chết.

– Tác nhân gây bệnh: Bệnh trùng bánh xe do loại vi khuẩn có tên khoa học Trichodina, Trichodinella, Tripartiella gây ra.

– Phân bố và lan truyền: Trùng bánh xe phân bố rộng, gây bệnh chủ yếu ở giai đoạn cá hương cá giống (tỷ lệ cảm nhiễm bệnh cao từ 80 – 100%). Sau khi phát bệnh cá chết hàng loạt. Bệnh xuất hiện nhiều vào các mùa xuân, mùa hè, mùa thu; trong mùa đông bệnh ít phát triển.

– Phòng và trị: Dùng phèn xanh (CuSO4), sử dụng theo 2 cách: Tắm cho cá ở nồng độ 2 – 5 ppm (2 – 5 gr thuốc/m3 nước) trong thời gian 5 – 15 phút. Hoà thuốc tan trong nước phun xuống ao với nồng độ 0,5 – 0,7 ppm. Kết quả trị bệnh theo phương pháp này đạt kết quả khá tốt.

5. Bệnh trùng loa kèn:

– Dấu hiệu bệnh lý: Trùng thường bám trên da, vây, mang của cá coi, ba ba, ếch…chúng bám nhiều thành búi trắng dễ nhầm với nấm thuỷ mi. Các dấu hiệu bệnh lý giống như bệnh trùng bánh xe. Bệnh có thể độc lập hoặc kết hợp với ký sinh trùng đơn bào khác, gây bệnh làm cá chết hàng loạt.

– Tác nhân gây bệnh: Bệnh trùng loa kèn do loại trùng có tên khoa học là Epistylis hoặc Zoothamnium có dạng hình loa kèn gây ra.

– Phân bố và lan truyền: Trùng loa kèn gặp ở tất cả các động vật thuỷ sản như cá, tôm, ba ba, ếch… chúng thường gây bệnh ở giai đoạn giống. Bệnh xuất hiện và gây bệnh quanh năm, tập trung vào mùa xuân, thu, đông.

– Phòng và trị bệnh: Như với trùng bánh xe.

6. Bệnh Trùng quả dưa:

– Dấu hiệu bệnh lý: Cá chép koi Nhật bị bệnh trên da, vây, mang có nhiều trùng bám thành hạt lấm tấm, nhỏ, màu hơi trắng đục (đốm trắng), có thể nhìn rõ bằng mắt thường. Cá bệnh tách đàn bơi lờ đờ quanh ao. Cá trê có hiện tượng “treo râu”, đầu ngoi lên mặt nước, đuôi xuôi xuống phía đáy ao.

– Tác nhân gây bệnh: Bệnh do loại trùng có tên khoa học là Ichthyophthirius, có dạng hình quả dưa gây nên.

– Phân bố và lan truyền: Bệnh phân bố rộng, trùng quả dưa sống thích hợp ở nhiệt độ 25 – 26 oC do đó ở miền Bắc bệnh thường phát triển vào mùa xuân và mùa thu (nhất là nơi nuôi cá có ít ánh sáng). Bệnh gây thiệt hại nhiều cho cá rô phi, cá trê

– Phòng trị bệnh: Bệnh trùng quả dưa rất khó chữa trị vì chúng có giai đoạn bào nang, phải lượng thuốc rất lớn mới trị được bệnh. Cho nên tốt nhất dùng biện pháp phòng bệnh tổng hợp .

7. Bệnh trùng mỏ neo:

– Dấu hiệu cá koi bị bệnh trùng mỏ neo của bệnh lý: Trùng mỏ neo ký sinh hút chất dinh dưỡng làm viêm loét da, vây, mang, xoang miệng của cá… từ vết loét tạo điều kiện cho ký sinh trùng khác, nấm, vi khuẩn xâm nhập gây bệnh. Cá ngứa ngáy, khó chịu, kém ăn, da mất sắc mầu bình thường, bơi lờ đờ, phản ứng kém gầy yếu, có nhiều trùng ký sinh bị bệnh nặng, dẫn đến chết.

– Tác nhân gây bệnh: Là do loại trùng có hình dạng giống chiếc mỏ neo của tàu thuyền có tên khoa học Lernea gây nên.

– Phòng và trị: Trùng mỏ neo phân bố rộng từ xứ nóng đến xứ lạnh; bệnh nguy hiểm với nhiều loài cá nuôi khi nuôi với mật độ quá dày và thiếu dinh dưỡng. Bệnh thường xảy ra vào mùa xuân, thu, đông, nhất là các ao cá lưu qua đông. Phòng bệnh theo cách phòng bệnh chung.

– Trị bệnh: Dùng lá xoan băm nhỏ hoặc bó thành từng bó từ 10 – 15 kg dìm xuống ao nuôi với lượng 40 – 50 kg/sào Bắc bộ.

8. Bệnh rận cá.

– Dấu hiệu bệnh lý: Rận cá sống ký sinh trên da, thân, vây, xoang miệng và mang cá koi. Nó hút máu, tiết chất độc, làm cá bị tổn thương, sưng đỏ…tạo điều kiện cho các ký sinh trùng khác, vi khuẩn, nấm xâm nhập gây bệnh. Trùng thường đốt cá vào ban đêm làm cá ngứa ngáy, khó chịu, bơi nhảy lung tung.

– Tác nhân gây bệnh: Là do loại trùng có tên khoa học là Argulus gây ra.

– Phân bố và lan truyền: Rận cá ký sinh trên nhiều loài cá nuôi, bệnh xuất hiện quanh năm, gây thiệt hại lớn cho cho nghề nuôi cá lồng bè.

– Phòng và rị bệnh: Như bệnh trùng mỏ neo.

9. Bệnh thối vây, đuôi. 

Sự thoái hóa của các mô nằm giữa các tia của vây do sự nhiễm khuẩn thường xảy ra dễ dàng hơn nếu phẩm chất của nước xấu. Vây cá cũng có thể bị thiệt hại do những khi bắt cá bằng tay không khéo léo hoặc do các cá khác cắn vây, khiến cho sự nhiễm khuẩn có chỗ phát sinh trên những phần bị thương. Để điều trị, phải làm sao cho nước được hoàn toàn trong sạch, luôn luôn xem xét đến các điều kiện bảo quản và vận hành của bể. Nếu bệnh phá hoại ở phần đuôi của cá, sự trị bệnh rất tốn kém. Có thể dùng các cách điều trị trên cơ sở của Acriflavin và của Phenoxethol thay cho các phương pháp phẫu thuật.

Đánh giá của bạn(*)

4 / 5
( 5 / 5 )
3  lượt đánh giá

Đừng bỏ lỡ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *